Chỉ 2 năm sau, quyết định táo bạo đó được chứng minh là đúng đắn, khi Công ty tiếp tục đầu tư chiếc máy in cuộn cao cấp có sấy thứ hai, đưa vào sử dụng năm 2003 cùng hàng loạt máy in tờ rời, máy đóng sách với giá trị đầu tư hơn 7 triệu USD. Nhờ những quyết định đầu tư kịp thời của ông, In Trần Phú đã duy trì được mức tăng trưởng bình quân 20-25%/năm trong những năm sau đó.
Cắt giảm gần 40% lực lượng lao động. Dám đầu tư hàng triệu USD để mua máy in màu hiện đại. Sự quyết liệt đó của ông Nguyễn Văn Dòng đã vực dậy Công ty In Trần Phú, một doanh nghiệp nhà nước mấp mé bờ vực phá sản vào cuối thập niên 80.
Năm 1987, sau Đổi Mới 1 năm, Công ty In Trần Phú gần như đứng bên bờ vực phá sản vì không theo kịp sự thay đổi của nền kinh tế thị trường. Ông Nguyễn Văn Dòng, người được đào tạo trong lĩnh vực quản lý ngành in ở Nga về, lúc đó đang là Trưởng phòng Liên hiệp các Xí nghiệp In thuộc Bộ Thông tin, đã được đề nghị vào Nam giữ chức Giám đốc để cứu Công ty In Trần Phú. Khi đó, ông mới 35 tuổi.
Tuy nhiên, ông đã từ chối làm Giám đốc theo bổ nhiệm. Thay vào đó, ông đề nghị được đảm nhận vai trò Phó Giám đốc 1 năm, sau đó sẽ trở thành Giám đốc thông qua bỏ phiếu tín nhiệm. Năm 1988, hơn phân nửa số cán bộ chủ chốt đã ủng hộ ông Dòng ngồi vào ghế Giám đốc. Từ đó đến nay, dưới tài lèo lái của vị thuyền trưởng quyết đoán này, con tàu In Trần Phú đã phát triển một cách vững chãi. Công ty hiện có mức doanh thu dẫn đầu toàn ngành in Việt Nam, lên đến 435 tỉ đồng năm 2010.
Bài toán nhân sự
Ông Nguyễn Văn Dòng, Giám đốc Công ty In Trần Phú. |
Sau Đổi Mới, In Trần Phú được ví như con tàu sắp chìm, với hơn 600 nhân viên và gần một nửa số đó dường như… ngồi không ăn lương. Trong khi đó, dàn quản lý cấp cao đều là những người đã lớn tuổi, đa phần quen làm việc với tư duy bao cấp, nên không dễ chấp nhận nằm dưới quyền một giám đốc trẻ tuổi, lại chân ướt chân ráo từ miền Bắc vào. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trì trệ tại Công ty và cũng là bài toán đầu tiên ông Dòng xác định phải giải quyết sau khi trở thành Giám đốc. Ông quyết định tinh gọn bộ máy nhân sự, chú trọng tăng năng suất lao động, thu hút người tài.
Tuy nhiên, vì là doanh nghiệp nhà nước nên lúc đó Công ty chưa có chế độ tiền lương giải quyết cho người lao động nghỉ việc. Ông Dòng đã quyết định mỗi nhân viên có thâm niên 1 năm làm việc sẽ được trả trợ cấp thêm 2 tháng lương nếu nghỉ việc. Nhiều lao động dư thừa tại các bộ phận được Công ty khuyến khích nghỉ việc và nhận trợ cấp. Từ trên 600 nhân viên, sau 2 lần tinh giảm, Công ty còn lại khoảng 380 người và con số đó được duy trì cho đến ngày hôm nay.
Những nhân viên còn lại phải thắt lưng buộc bụng để cùng vị giám đốc mới thực hiện thành công chiến lược này. Chính sách lương bình quân và lương theo thâm niên trước đây cũng được loại bỏ. “Người giỏi làm nhiều phải nhận mức lương cao hơn người kém năng lực và làm ít. Chính sách cào bằng trước đó đã triệt tiêu sự sáng tạo của nhân viên”, ông Dòng bộc bạch. Lối suy nghĩ này đối với một công ty nhà nước tại thời điểm đó quả là táo bạo.
Chính sách thu hút nhân tài ở đây cũng khá lạ. Ông Dòng cho biết, giữa cán bộ, công nhân viên và giám đốc có ký kết thỏa ước lao động. Chẳng hạn, công nhân viên đề nghị Công ty phải trả lương bằng tiền mua đủ 100 kg gạo/tháng. Giám đốc đồng ý với điều kiện họ phải đạt chỉ tiêu về năng suất làm việc. “Sang năm thứ 2, chúng tôi lại tiếp tục thỏa ước lương mỗi tháng mua đủ 1 chỉ vàng, năm sau nữa là lương tháng phải bằng 100 USD”, ông nhớ lại. Hiện nay, mức thu nhập trung bình của công nhân trong Công ty khoảng hơn 10 triệu đồng/tháng và cũng có không ít kỹ thuật viên lành nghề đạt mức 20-30 triệu đồng/tháng.
Đầu tư đúng và đủ
Cùng với việc tinh giảm nhân sự, ông Dòng đã thực hiện những dự án đầu tư táo bạo để đổi mới trang thiết bị, máy móc.
Năm 1992, khi thị trường sách báo Việt Nam chỉ có in 1 và 2 màu, việc xuất hiện một tờ báo cuối tuần in 4 màu đã gây xôn xao giới báo chí. Đó là báo 4 màu đầu tiên của Việt Nam, in tại nhà in Trần Phú. Để in được sản phẩm này, ông đã nhập máy in tờ rời 4 màu trị giá 1,2 triệu USD từ Đức.
“Đó là đầu tư đón đầu bởi tôi nhìn thấy thị trường bắt đầu có nhu cầu in màu rất lớn. Tuy nhập máy với một số tiền lớn vào thời điểm đó, nhưng tôi không ngại thất bại. Tôi tin rằng đã có một sản phẩm cần dùng đến chiếc máy này, ắt phải có sản phẩm thứ hai, thứ ba”, ông nói.
Và ông đã đúng. Sau tờ báo cuối tuần in 4 màu, Công ty tiếp tục nhận được hàng loạt các hợp đồng in từ niên giám điện thoại trang vàng cho đến tờ Heritage phát trên máy bay (lúc đầu tờ này được đặt in ở Singapore). Sau đó là các tạp chí giải trí, kinh doanh, kinh tế. Tuy nhiên, mỗi máy in màu tờ rời chỉ có công suất tối đa là 10.000-15.000 tờ/giờ. Nếu in hàng trăm ngàn bản, nhà in không thể đáp ứng được. Năm 1995, ông Dòng quyết định nhập chiếc máy in offset cuộn 4/2 màu đầu tiên và liên tục các năm 1996, 1998, tiếp tục nhập thêm 2 máy in 4 màu tờ rời để phục vụ thị trường báo in đang phát triển mạnh tại Việt Nam.
Khi những chiếc máy in 4 màu tờ rời và máy in báo cuộn đang được khai thác hết công suất, ông Dòng lại triển khai một dự án đầu tư táo bạo hơn. Đó là mua chiếc máy in cuộn cao cấp có sấy (headset) gần 4 triệu euro, có thể in với tốc độ 40.000 tờ/giờ trên giấy couché, có độ in tinh xảo hơn, công suất cao gấp 10 lần so với máy in tờ rời. Nhiều người đã hoài nghi với quyết định này, trong đó có các lãnh đạo Công ty cùng một số khách hàng và đồng nghiệp. “Tôi giải thích cho họ hiểu, nhưng tôi không theo số đông mà theo những gì mình cho là đúng, bởi mình nắm được nhiều thông tin hơn họ”, ông nói.
Chỉ 2 năm sau, quyết định táo bạo đó được chứng minh là đúng đắn, khi Công ty tiếp tục đầu tư chiếc máy in cuộn cao cấp có sấy thứ hai, đưa vào sử dụng năm 2003 cùng hàng loạt máy in tờ rời, máy đóng sách với giá trị đầu tư hơn 7 triệu USD. Nhờ những quyết định đầu tư kịp thời của ông, In Trần Phú đã duy trì được mức tăng trưởng bình quân 20-25%/năm trong những năm sau đó.
Tính ra, trung bình mỗi năm, Công ty đầu tư trên 1 triệu USD vào máy móc, trang thiết bị. Nhờ đó, sản lượng hiện nay đã tăng gấp hơn 30 lần so với thời kỳ sau Đổi Mới. Ông cho biết, mỗi lần vay tiền ngân hàng để mua máy, ông đặt mục tiêu khấu hao tài sản là sau 5 năm sẽ hoàn vốn (theo quy định của Nhà nước là sau 7 năm). Song trên thực tế, sau khoảng 3-4 năm, Công ty đã trả hết nợ và lãi cho ngân hàng. Ông Dòng cho rằng, nếu khấu hao kéo dài, hoàn vốn chậm, năng lực tái đầu tư của doanh nghiệp sẽ giảm sút. “Nhà quản lý phải hoạch định chính sách trước khi đầu tư một công nghệ mới để khai thác nó một cách hiệu quả. Tôi quan niệm chỉ có đầu tư đủ, đầu tư đúng mới có thể nhanh chóng thành công”, ông nói. Ông Dòng không đồng ý lối đầu tư nửa vời, làm hàng cao cấp không tới, làm sản phẩm trung bình thì phí tiền. Ông cũng phản đối kịch liệt kiểu đầu tư theo phong trào.
Có thể nói, là một nhà quản trị trẻ, nếu không có sự dũng cảm, quyết đoán đến cùng, ông Dòng khó lòng có được thành công như ngày hôm nay.
Tương lai của ngành in: Bao bì
Tại Hội nghị ngành in châu Á - Thái Bình Dương do Fuji Xerox tổ chức vào tháng 8.2011 ở TP.HCM, ông Dòng, với tư cách là Chủ tịch Hiệp hội In Việt Nam, đã có bài tham luận tại Hội nghị. Ông nói: “Ngành in Việt Nam còn nhiều phân khúc mà các doanh nghiệp chưa đầu tư đúng và đủ. Đây là cơ hội cho các nhà đầu tư mới trong và ngoài nước. Thị trường in Việt Nam vẫn là thị trường đầy tiềm năng với sản lượng 2 tỉ USD/năm”. Theo ông, trong tương lai, mảng in kỹ thuật số sẽ phát triển mạnh và thị trường in offset sẽ giảm đáng kể. Dù khẳng định xu hướng trong tương lai sẽ là in kỹ thuật số, song In Trần Phú dường như chưa có kế hoạch đầu tư vào mảng này. Công nghệ in offset hiện vẫn là mảng chủ lực của Công ty (cũng là của cả ngành in Việt Nam).
Công nhân đang làm việc tại Công ty In Trần Phú. |
“Nhu cầu ấn phẩm của người tiêu dùng đang ngày càng đi vào chi tiết, mang tính cá biệt nhiều hơn, rất phù hợp cho in kỹ thuật số. Các công ty nhỏ có thể đầu tư vào kỹ thuật này. Còn In Trần Phú đang tập trung vào lĩnh vực thế mạnh của mình là in thương mại (sách, báo, tạp chí), in nhãn hàng và in tờ rơi”, ông giải thích.
Ngành in luôn đòi hỏi đầu tư lớn trong khi đang đối mặt với những thách thức mới từ sự phổ biến của báo điện tử, truyền thông qua mạng (như mạng xã hội). Vậy tương lai của ngành in sẽ như thế nào? Ông Dòng cho rằng: “In thương mại sẽ giảm và bằng chứng là lĩnh vực này đã giảm 30-40% so với thời hoàng kim. In nhãn hàng và bao bì sẽ lên ngôi”.
Bao bì và nhãn sản phẩm hiện chiếm 65% thị trường in Việt Nam. Sản phẩm này tỉ lệ thuận với sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Có thể thấy, ngoài Công ty In Trần Phú đang dẫn đầu doanh thu, theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2010, khoảng gần 30 doanh nghiệp in có doanh thu trên 100 tỉ đồng. Gần 20 doanh nghiệp trong số đó chuyên in bao bì và nhãn hàng.
Đó là lý do in nhãn hàng, tờ rơi được ông xác định là mảng dự phòng nếu dòng sản phẩm chủ lực của Công ty (in thương mại) suy giảm. In Trần Phú đang phát triển nhanh mảng này, với mức tăng trưởng 20%/năm. Từ nhiều năm qua, nhãn hàng các sản phẩm của Tổng Công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn, Nhà máy Bia Việt Nam, tờ rơi của chuỗi siêu thị Metro, Co.opMart là do In Trần Phú in ấn.
Trong bài tham luận tại Hội nghị, ông Dòng cho biết, từ năm 2008, tốc độ tăng trưởng của ngành in Việt Nam có chậm lại so với trước nhưng vẫn ở mức ổn định 10%/năm. Song năm nay, do ảnh hưởng từ dư chấn khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tỉ lệ đó giảm xuống 5-7% và dự báo năm 2012 sẽ tăng trưởng trở lại 10%. Ông Dòng đặt ra mục tiêu cho Công ty là đạt doanh thu tăng trưởng thấp nhất 10% trong năm tới.
Trước những thách thức đang gia tăng trong ngành, ông Dòng cho rằng, Luật Xuất bản cần phải có những thay đổi để hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, tốc độ thay đổi của Luật Xuất bản đang chậm hơn nhiều so với tốc độ phát triển của đất nước. Chỉ mỗi quy định nhà in phải nộp lưu chiểu sách báo in, ông đã phải đấu tranh tại nhiều cuộc họp của ngành thì quy định này mới được bỏ hẳn (ngoài vai trò Chủ tịch Hiệp hội In Việt Nam, ông Nguyễn Văn Dòng từng là Phó Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam và Hội Xuất bản Sách ASIAN. Ông cũng đã có nhiều đóng góp quan trọng trong sửa đổi Luật Xuất bản).
Điều quan trọng, theo ông Dòng, là Luật cần khuyến khích phát triển in gia công cho nước ngoài vì đây là một lĩnh vực mà Thái Lan đã tạo ra được 2 tỉ USD mỗi năm. Tuy nhiên, thủ tục xin giấy phép in gia công đã khiến không ít nhà in gặp khó khăn. “Cần phân định rõ việc quản lý in xuất bản phẩm trong nước với việc in gia công theo đơn đặt hàng của nước ngoài để tránh những bất hợp lý trong quản lý”, ông nói.
Không ít lần ông cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng. Khi đó, ông lại tìm đến những khoảng lặng. Khoảng lặng của ông rất đơn giản: đi du lịch, uống cà phê với bạn bè hoặc ngồi ngắm hàng giờ những chiếc bình gốm cổ trong bộ sưu tập của mình. Ông Dòng mê đồ gốm cổ đến mức thấy một mảnh gốm vỡ cũng mua. Đôi khi ông mua được các mảnh vỡ của những món đồ cổ, có khi một nửa ở ngoài Bắc, một nửa trong Nam, nhưng khi về lắp vào, lại vừa khít. “Ở đời có những mảnh vỡ rất đẹp và đó là những mảnh vỡ hoàn hảo nhất mà tôi từng biết”, ông nói.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét