Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2016

Khám phá câu chuyện : Bán vàng, mua thau

Giai đoạn này, DN đứng trước thách thức tăng trưởng về quy mô và duy trì danh tiếng thương hiệu. Chẳng hạn, website thương mại chodientu có thể vượt qua thách thức thâm nhập thị trường nhưng không đủ các cơ hội về sức mạnh tổng hợp để nâng thương hiệu lên tầm cao mới nên bán lại một phần cho eBay là một tính toán khôn ngoan.
Ông Đỗ Thanh Năm, Giám Công ty Tư vấn hỗ trợ Doanh nghiệp Win-Win, cho rằng: “Có hai hình thức mua thương hiệu, một là mua xong, khai thác thương hiệu: mua cả giá trị vô hình và giá trị hữu hình của thương hiệu.
Sau khi mua xong, tiếp tục khai thác thương hiệu, giá trị ẩn chứa bên trong của thương hiệu.
Hoặc là mua xong rồi xóa sổ thương hiệu: mua giá trị ẩn chứa bên trong của thương hiệu như cơ sở vật chất, con người, hệ thống phân phối, công nghệ ràng buộc về pháp lý, không phải cạnh tranh trực tiếp”.
Hai vụ mua bán thương hiệu gần đây nhất được xem là sự kiện tiêu biểu cho chiến thuật này.
Đó là Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi của Nhật Bản mua lại phần bảo hiểm nhân thọ của Bảo Minh CMG, và Hãng hàng không Jetstar Airways (JA), đơn vị thành viên của Tập đoàn hàng không Qantas mua 30% cổ phần của Pacific Airline (PA), tương đương 50 triệu USD.
Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, rồi sẽ không còn ai biết đến Bảo Minh CMG. Và trên đường bay quốc tế tới đây có thể sẽ không còn cái tên PA.
Tuy nhiên, cũng theo ông Năm phân tích, mua thương hiệu chỉ là bước đầu cho một chiến lược kinh doanh lâu dài. Vì vậy, thương hiệu chưa phải là yếu tố cơ bản mà sự linh hoạt, nhạy bén của DN trong môi trường kinh doanh luôn biến động, cũng như khả năng quản lý, gìn giữ thương hiệu mới là yếu tố quan trọng nhất để phát huy lợi thế của thương hiệu có sẵn”.
Ông Nguyễn Hoàng Long, Giám đốc Công ty Minh Kiếm, chia sẻ thêm: “Để phát huy lợi thế mua thương hiệu, DN cần có chiến lược kinh doanh, và cách tốt nhất là chiến lược đó phải phù hợp với chiến lược của DN bán thương hiệu.
Đặc biệt, thành công của thương hiệu phụ thuộc rất nhiều vào sự giám sát chất lượng sản phẩm, thực hiện các cam kết về giao dịch, xây dựng chiến lược”.
Ông Long chính là người xây dựng thành công thương hiệu nước uống đóng bình M-Kitech, loại 20 lít, với 33 chi nhánh xử lý và cung cấp nước tại TP.HCM và 160 chi nhánh từ miền Tây đến miền Trung, cùng hệ thống phân phối và mạng lưới khách hàng rộng khắp.
Sau khi M-Kitech thành công, ông Long đã bán thương hiệu này cho một DN khác và xây dựng thương hiệu mới Water Maxx.
Tuy nhiên, do không có những cam kết bắt buộc nên sau khi mua lại thương hiệu M-Kitech, phía mua thương hiệu không có cách quản lý phù hợp nên xảy ra tình trạng “lời giả, lỗ thật”.
Nhiều khách hàng phản ánh không tốt về cung cách phục vụ, chất lượng nước M-Kitech cũng bị cơ quan quản lý lập biên bản vì chưa đảm bảo tiêu chuẩn.
“Nhiều bạn bè, khách hàng thân thiết gọi điện thoại đến tôi phàn nàn, có người còn nói gay gắt: “Sao dạo này ông làm ăn kỳ vậy?”.
Đây là điều tôi đang rất đau đầu vì không chỉ làm ảnh hưởng uy tín cá nhân của tôi mà còn ảnh hưởng đến thương hiệu mới tôi đang xây dựng”, ông Long phân trần.
Về phía đơn vị mua thương hiệu, giám đốc một DN cũng chia sẻ, mua quyền sử dụng thương hiệu thường có giá thành rất cao và các hợp đồng mua bán này thường có những điều kiện kèm theo...
Liên doanh Việt - Nhật Vinabico - Kotobuki hoạt động trên lĩnh vực chế biến thực phẩm, cái tên Vinabico - Kotobuki được người tiêu dùng biết đến qua các loại sản phẩm bánh trung thu, bánh kem, bánh kẹo các loại.
Sau đó, Kotobuki quyết định bán lại cổ phần trong liên doanh cho phía Việt Nam. Vinabico chuyển thành công ty 100% vốn trong nước nhưng với điều kiện chỉ được sử dụng thương hiệu cũ trong vòng 5 năm.
Ngoài ra, một số DN bán thương hiệu cũng không “nhiệt tình” truyền hết bí quyết kinh doanh cho bên mua như nhượng quyền thương hiệu, nên với những người không có chuyên môn kỹ thuật sẽ rất dễ rơi vào tình trạng sản phẩm bị chệch choạc về chất lượng.
Hoặc như Kinh Đô, dù thừa nhận có nhiều lợi thế khi khi mua thương hiệu kem Wall’s như có đội ngũ nhân sự giỏi, có chuyên môn, kinh nghiệm, nhưng qua tìm hiểu, thời gian đầu, Kinh Đô cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như khác biệt về văn hóa, cách làm việc giữa Kinh Đô và Công ty đa quốc gia Unilever, thậm chí cả chế độ lương bổng, cách giữ người cũng phải chi trả nhiều tiền hơn.
Các hình thức đầu tư mua nhãn hiệu nước ngoài đi tắt để sản xuất hàng cao cấp đang là khuynh hướng đầu tư mới.
Tuy nhiên, các chuyên gia thương hiệu khuyến cáo do là hình thức mới nên các DN Việt Nam cần nghiên cứu thị trường và nhãn hiệu nước ngoài thật kỹ trước khi bỏ tiền mua.
Vinamilk cũng đã liên doanh với hãng Campina International Holding B.V của Hà Lan, một hãng sữa nổi tiếng thế giới để sản xuất các nhãn hiệu Campina, Yippee, Yogood phục vụ phân khúc thị trường có thu nhập cao. Song quý IV/2005 họ thông báo lỗ tới 24 tỷ đồng.
Trong khi đó, sau thành công của An Phước, nhãn hiệu Pierre Cardin đã được nhượng quyền khai thác cho 4 DN khác tại Việt Nam.
Công ty Long Khải mới khai thác nhãn hiệu Pierre Cardin với các sản phẩm tất dệt kim, trước đó họ từng kinh doanh các nhãn hiệu nổi tiếng của Mỹ như Tommy Lee, Concept...
Cũng trong xu hướng này, Tập đoàn Dệt may Việt Nam đặt kế hoạch trong năm nay mua 2 - 4 nhãn hiệu nổi tiếng nhằm đẩy nhanh việc chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Theo ông Đoàn Đình Hoàng, chuyên gia tư vấn thương hiệu, mua bán thương hiệu là một hành vi kinh doanh rất bình thường.
Ở giai đoạn bão hòa, thương hiệu đã đi vào ổn định, nhiều khách hàng đã trở thành khách hàng trung thành, mức tăng trưởng ổn định, ít rủi ro nhưng không còn đột biến.
Giai đoạn này, DN đứng trước thách thức tăng trưởng về quy mô và duy trì danh tiếng thương hiệu. Chẳng hạn, website thương mại chodientu có thể vượt qua thách thức thâm nhập thị trường nhưng không đủ các cơ hội về sức mạnh tổng hợp để nâng thương hiệu lên tầm cao mới nên bán lại một phần cho eBay là một tính toán khôn ngoan.
Trả lời báo chí, ông Trần Việt Hùng, Cục trưởng Cục Sở hữu Trí tuệ, mỗi năm, Cục nhận được khoảng 35.000 đơn đăng ký sở hữu trí tuệ, bảo hộ thương hiệu, tăng khoảng 7 lần. Từ chỗ các DN Việt Nam chỉ chiếm 20 - 25% trong tổng số đơn đăng ký thì hiện nay DN trong nước vượt lên chiếm áp đảo đến trên 60%. Trong đó, một số nhãn hiệu nếu tập trung làm tốt thì có thể bán, nhượng quyền thương mại để thu lại các giá trị gia tăng rất lớn. Tuy nhiên, Việt Nam mới chỉ khai thác khoảng 20% tiềm năng này với một số hợp đồng chuyển nhượng lớn trước đây như Dạ Lan và P/S. Nguyên nhân là các DN còn thiếu một phương thức định giá tài sản trí tuệ một cách chuyên nghiệp, các DN còn loay hoay không biết rõ giá trị thương hiệu của mình là bao nhiêu, bán giá nào cho hợp lý...
Theo nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế, tính trung bình, giá trị của thương hiệu chiếm ít nhất một phần ba giá trị cổ phiếu, hoặc thậm chí còn cao hơn.
Theo đánh giá của ông Đoàn Đình Hoàng, trong một số trường hợp, việc mua lại thương hiệu còn giảm thiểu sự cạnh tranh trực tiếp nếu phát triển cùng ngành, cùng thị trường.
Ngoài ra, trong một số trường hợp, chi phí mua lại thương hiệu có thể rẻ hơn chi phí đầu tư thương hiệu.
Để chọn lựa giải pháp xây dựng và bán thương hiệu, sau đó gầy dựng thương hiệu mới cần chú ý các điểm sau: DN xây và bán phải có năng lực thâm nhập thị trường tốt và có thể nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, tạo độ nhận biết rộng rãi về thương hiệu.
Việc mua bán diễn ra trên nền tảng các bên tìm thấy thế mạnh riêng của mình trong từng giai đoạn phát triển thương hiệu. Việc mua bán lúc đó sẽ làm giảm rủi ro cho cả hai bên tham gia mua và bán.

Cùng tìm hiểu về thị trường xe máy: Thế chân vạc

Sự cạnh tranh theo thế “tam quốc” đã hiện rõ, bởi thị trường tiêu thụ xe máy Việt Nam vẫn rất hấp dẫn. Theo thống kê của EuroCham, bất chấp tình hình kinh tế khó khăn năm 2010, tổng cộng trên 2,75 triệu xe máy đã được bán ra thị trường, tăng 20% so với mức 2,26 triệu chiếc năm 2009 và tăng 46% so với năm 2008.
So kè công suất
Piaggio Việt Nam sẽ tăng từ 100 ngàn xe lên 300 ngàn xe vào năm 2012
Cuối tháng 7, Honda Việt Nam (HVN), liên doanh xe máy chiếm thị phần lớn nhất trên thị trường Việt Nam (trên 60%), công bố dự án xây dựng nhà máy sản xuất xe máy thứ ba với công suất 500.000 chiếc tại tỉnh Hà Nam.
Nhà máy này có vốn đầu tư khoảng 120,5 triệu USD, được xây dựng trên diện tích hơn 27ha, dự kiến sẽ hoàn thành và bắt đầu hoạt động từ cuối năm 2012, nâng tổng công suất của ba nhà máy lên 2,5 triệu chiếc/năm.
Với đầu tư mới này, HVN một lần nữa chứng minh sức mạnh thật sự của mình, đồng thời cho thấy một cuộc đua về tốc độ chiếm lĩnh thị trường bắt đầu diễn ra giữa các nhà sản xuất lớn.
Ban đầu phải kể đến “kẻ thách thức đẳng cấp” là Piaggio. Bà Trần Thu Mai, Trưởng phòng Đối ngoại Công ty Piaggio Việt Nam, khẳng định, Piaggio Việt Nam sẽ tăng năng lực sản xuất từ 100 ngàn lên 300 ngàn xe, tổng số nhân viên đạt 1.000 người vào cuối năm 2012.
Trong giai đoạn đầu tư này, Piaggio tiếp tục đầu tư 40 triệu USD cho khu vực sản xuất, đồng thời thành lập Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển tại Việt Nam nhằm thiết kế sản phẩm mới phục vụ thị trường châu Á.
Với dự án mới này, Tập đoàn Piaggio củng cố vị trí là tập đoàn kinh tế lớn nhất của Ý đầu tư tại châu Á và đưa Việt Nam trở thành Trung tâm Sản xuất của Piaggio tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Chưa hết lo với công bố của Piaggio Việt Nam, HVN lại tiếp tục giật mình với kế hoạch mới nhất từ “người đồng hương” Yamaha. Theo kế hoạch, Yamaha sẽ đầu tư hơn 26 triệu USD vào việc tăng công suất sản xuất xe máy hiện có trên thị trường Việt Nam.
Mục tiêu của Hãng là tăng thêm 50% công suất lắp ráp để đạt mức 1,5 triệu xe/năm. Không đầu tư xây dựng nhà máy mới, Yamaha sẽ tập trung mở rộng và nâng cấp nhà máy ở Trung Giã, Sóc Sơn thay vì nhà máy tại Khu công nghiệp Nội Bài, Hà Nội.
Quy mô hay đẳng cấp?
Kế hoạch đầu tư mới 40 triệu USD của Piaggio thật sự tạo bất ngờ khi nhà máy đầu tiên trị giá 30 triệu USD tại Việt Nam mới hoạt động chưa đầy hai năm. Theo bà Trần Thu Mai, đầu tư mới của Piaggio Việt Nam là nhằm tiếp tục khẳng định “đẳng cấp” của mình.
Thời gian qua, Piaggio, với hai thương hiệu Piaggio và Vespa, đã thiết lập một phân khúc mới trên thị trường là phân khúc xe tay ga hạng sang, đến nay chiếm tới 80% thị phần của phân khúc này.
Không nói suông, đầu tháng 8, Piaggio Việt Nam đã đưa ra thông điệp mới cho các dòng sản phẩm mang thương hiệu Piaggio: “Art of the Motorbike”.
Sự biến hóa đầy ngẫu hứng của bốn nghệ sĩ nổi tiếng thế giới trên chiếc Liberty i.e - mẫu xe mới nhất và sành điệu nhất của Piaggio, đã gợi lên phong cách thiết kế sáng tạo đậm chất Ý.
Trong khi đó, quyết định tăng cường đầu tư của Yamaha tại Việt Nam là nằm trong chiến lược phát triển thị trường trọng điểm của tập đoàn này.
Cùng với Việt Nam, Yamaha cũng sẽ đầu tư 64 triệu USD tại Ấn Độ để xây một nhà máy ở ngoại ô New Delhi nhằm mục đích tăng gấp đôi sản lượng hằng năm lên khoảng 1 triệu xe.
Doanh số bán hàng của Yamaha trong 6 tháng đầu năm nay tại Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 19%. Tại Ấn Độ, Công ty đã bán được 152.000 xe máy trong 6 tháng đầu năm nay, tăng 41% so với cùng kỳ năm trước.
Tại Việt Nam, Yamaha hiện là thương hiệu xe máy có thị phần lớn thứ hai sau Honda, với lượng bán khoảng 1 triệu xe trong năm 2010 (Honda là 1,9 triệu).
Nếu tính toàn bộ các thị trường xe máy trên thế giới thì Yamaha đang giữ vị trí thứ hai với gần 7 triệu xe đã bán trong năm 2010, thấp hơn gần 4,5 triệu xe so với tập đoàn đồng hương Honda.
Sự cạnh tranh theo thế “tam quốc” đã hiện rõ, bởi thị trường tiêu thụ xe máy Việt Nam vẫn rất hấp dẫn. Theo thống kê của EuroCham, bất chấp tình hình kinh tế khó khăn năm 2010, tổng cộng trên 2,75 triệu xe máy đã được bán ra thị trường, tăng 20% so với mức 2,26 triệu chiếc năm 2009 và tăng 46% so với năm 2008.
Dự báo, mức tiêu thụ xe máy tại Việt Nam sẽ tăng lên 3 triệu chiếc/năm từ 2011 - 2012. Như vậy, Việt Nam đã trở thành thị trường tiêu thụ xe máy lớn thứ tư thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia.
Nhưng theo phân tích của Bộ Công Thương, mức tiêu thụ xe máy ở thị trường Việt Nam dù vẫn tăng cao, nhưng lại theo chiều giảm dần đều.
Trong khi đó, theo thống kê, Việt Nam hiện có hơn 60 doanh nghiệp (DN) tham gia ngành công nghiệp xe máy, trong đó có 50 DN trực tiếp tham gia sản xuất, còn lại là DN lắp ráp.
Chỉ cần tính riêng sản lượng của hai DN lớn nhất là Honda và Yamaha, công suất sản xuất xe máy tới cuối năm 2012 đã đạt 4 triệu chiếc/năm.
Nếu tính cả Piaggio Việt Nam, SYM, Suzuki, và trên 10 DN xe máy 100% vốn trong nước, thì công suất sản xuất xe máy của Việt Nam đạt trên 5 triệu xe/năm. Theo nhận định của các đại lý phân phối xe lớn, trong vòng ba năm tới, thị trường xe máy sẽ bão hòa và đi ngang, rồi tiến tới đi xuống. 
 

Giới thiệu với bạn: Công ty gia đình và bài toán sở hữu

Năm nay 61 tuổi, ông Lý Siêng chưa có ý định về hưu. Mỗi ngày ông đều có mặt ở văn phòng, chạy xe máy trong khuôn viên nhà máy thăm các xưởng sản xuất và vẫn là người đưa ra ý tưởng sản phẩm mới, tiêu biểu là chiếc cân treo mini đã nói ở trên. Tuy nhiên, áp lực tìm người kế nhiệm là điều ông Lý Siêng sẽ phải đối mặt trong tương lai gần.
Khi bảo vệ quyền sở hữu, các công ty gia đình có thể rơi vào bẫy tăng trưởng cầm chừng do thiếu nguồn lực hỗ trợ. Cân Nhơn Hòa đang tìm cách hóa giải cái bẫy này.
Sinh viên tham quan tại Xưởng 5 CT Cân Nhơn Hòa
Nguyễn Văn Sang tự hào giới thiệu chiếc máy quấn lò xo tự tạo, sáng kiến của anh cùng 2 nhân viên kỹ thuật khác từ năm 2004. Chiếc máy có cấu tạo đơn giản, không khác mấy so với những chiếc máy cùng loại bán trên thị trường, chỉ khác là có gắn đồng hồ đếm số lượng lò xo làm ra. Chỉ một cải tiến nhỏ này không thôi cũng đã giúp Sang tiết kiệm cho công ty hàng tỉ đồng tiền mua máy, đồng thời kiểm soát được chính xác số lượng thành phẩm. Nó cũng mang về cho anh 7 triệu đồng tiền thưởng vào năm 2004. Năm nay 37 tuổi, Sang đã có gần 17 năm gắn bó với Cân Nhơn Hòa, từ khi còn là một anh thợ phay bào cho đến vị trí Tổ trưởng Tổ Lò xo với 15 công nhân như hiện nay.
Phần thưởng Sang nhận được là 1 trong khoảng 20 giải thưởng sáng kiến cải tiến kỹ thuật được Công ty trao tặng mỗi năm. Đó là cách Lý Tracy Trang, Phó Tổng Giám đốc phụ trách Kế hoạch của Cân Nhơn Hòa, minh chứng cho chúng tôi thấy tính đại chúng trong quản lý của một công ty gia đình.
Lý Tracy Trang là con gái của ông Lý Siêng, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Cân Nhơn Hòa. Về Việt Nam năm 2008 sau 13 năm du học và làm việc ở Mỹ, chị cùng cha và các em gánh vác công việc của Công ty.
Cân Nhơn Hòa hiện có 5 phó tổng giám đốc, trong đó có 2 vị trí do các con ông Lý Siêng nắm giữ. Ngoài chị Trang, em trai chị hiện là Phó Tổng Giám đốc Điều hành. Ba vị trí còn lại là Phó Tổng Giám đốc Kinh doanh, Phó Tổng Giám đốc Kỹ thuật và Phó Tổng Giám đốc phụ trách Hành chính Quản trị cũng do 3 người bạn thâm giao đã cùng ông Lý Siêng lập nên Cân Nhơn Hòa 28 năm trước nắm giữ. Hiện nay, ngoài tỉ lệ cổ phần hơn 50% của ông Lý Siêng, phần vốn còn lại được chia đều cho anh em nhà họ Lý và các cổ đông sáng lập.
Đích ngắm của các quỹ
Cân Nhơn Hòa hiện độc chiếm thị trường cân Việt Nam với doanh thu tăng trưởng 15-20%/năm, đạt 520 tỉ đồng vào năm 2010. Trong khuôn viên nhà máy rộng gần 6 ha tại quận Thủ Đức (TP.HCM) với 8 xưởng sản xuất, gần 1.800 công nhân đều đặn làm ra hơn 8.000 sản phẩm mỗi ngày, được phân phối đi khắp cả nước và xuất sang 25 quốc gia và vùng lãnh thổ. Vòng quay hàng tồn kho chưa tới 5 ngày. “Chúng tôi làm việc hết công suất vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường, cả nội địa lẫn xuất khẩu”, chị Trang cho biết.
Sản phẩm mạnh, thị trường rộng lớn, tiềm năng tăng trưởng tốt và ban quản trị giàu kinh nghiệm, Cân Nhơn Hòa có mọi điều kiện để trở thành mục tiêu của các quỹ đầu tư cổ phần tư nhân của nước ngoài. Vì thế, không lạ gì khi những năm gần đây Cân Nhơn Hòa đã nhiều lần được các quỹ đầu tư tiếp cận. Họ kỳ vọng gì khi đầu tư vào Cân Nhơn Hòa?
“Cha tôi từ chối ngay khi nhận được thư của họ, chưa từng tiếp xúc và thảo luận với bất kỳ quỹ nào nên chúng tôi không biết chính xác họ muốn gì. Nhưng nguyên tắc hoạt động của quỹ đầu tư vẫn là vì lợi nhuận. Vì thế, khi xét thấy đã đạt được mức lợi nhuận mong đợi, họ sẽ bán lại cổ phần cho đối tác khác. Lúc đó, số phận của doanh nghiệp sẽ thế nào nếu nhà đầu tư mới kém năng lực, hoặc có ý đồ thâu tóm?”, chị Trang nói.
Ngược lại, doanh nghiệp thường tìm đến quỹ đầu tư với 3 kỳ vọng. Một là được hỗ trợ về vốn; hai là hoạch định chiến lược và năng lực quản trị; sau cùng là mở rộng thị trường và đối tác kinh doanh. Tuy nhiên, thực tế từ các cuộc hợp tác với quỹ đầu tư cho thấy, kỳ vọng thứ 3 hiếm khi đạt được và nâng cao năng lực quản trị thường là lợi ích quan trọng nhất các doanh nghiệp có được. Ngược lại, họ phải đánh đổi bằng quyền sở hữu và quyền được quyết định hoàn toàn mọi vấn đề liên quan đến doanh nghiệp mình. “Nếu chiến lược kinh doanh hay cách thực hiện chiến lược đó của chúng tôi sai, Cân Nhơn Hòa đã không tồn tại và tăng trưởng ổn định cho đến ngày hôm nay”, chị lý giải cho việc từ chối quỹ đầu tư.
Bảo vệ quyền sở hữu là phản ứng tự nhiên của các ông chủ công ty gia đình, nhưng điều này đôi khi phải đánh đổi bằng khả năng phát triển doanh nghiệp. Kết cục của đa số công ty gia đình thường là 1 trong 2 lựa chọn: Tiếp tục giữ quyền kiểm soát và chấp nhận tăng trưởng cầm chừng, thậm chí dần đánh mất năng lực cạnh tranh và sau cùng là suy thoái; hoặc chấp nhận hy sinh quyền sở hữu, bán cổ phần ra công chúng để tập hợp nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng, giúp công ty trường tồn. Tuy nhiên, trên thực tế, dù sức ép đại chúng hóa để tăng năng lực cạnh tranh ngày càng cao, thế giới vẫn tồn tại những công ty gia đình quy mô cực kỳ lớn.
Tập đoàn nông nghiệp và thực phẩm Mỹ Cargill, công ty tư nhân lớn nhất thế giới hiện nay, có mức doanh thu năm 2009 lên tới 109,84 tỉ USD. Nếu niêm yết, Cargill sẽ được xếp vào top 10 trong danh sách những công ty đại chúng lớn nhất nước Mỹ của Fortune 500. 85% cổ phần của Cargill vẫn thuộc về hậu duệ của dòng họ Cargill và MacMillan, 2 cổ đông sáng lập từ năm 1865.
Trong lúc quyền điều hành Cargill những năm gần đây đã được giao cho các nhà quản lý thuê ngoài thì Koch Industries (Mỹ), công ty tư nhân lớn thứ 2 thế giới với doanh thu năm 2009 khoảng 100 tỉ USD, vẫn do người nhà điều hành. Năm 1940, Fred C. Koch thành lập Koch Industries hoạt động trong ngành khai thác và lọc dầu. Đến nay, sau 71 năm, quyền điều hành vẫn nằm trong tay 2 con trai ông là Charles Koch và David Koch. Mỗi người nắm giữ 42% cổ phần và cả 2 đều có mặt trong danh sách những người giàu nhất thế giới.
Công ty gia đình và quy luật “nhị nan”
Hãy trở lại với Cân Nhơn Hòa. Từ khi chính thức thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn (năm 1998) đến nay, Cân Nhơn Hòa luôn đạt mức tăng trưởng sản lượng và doanh số hằng năm khá ổn định, ở mức 15-20%. Trong 28 năm qua (ra đời năm 1983), sản phẩm của Cân Nhơn Hòa vẫn được phân phối qua 2 đại lý ở TP.HCM và 1 ở Hà Nội. Trong kế hoạch mở rộng thị trường sắp tới, ông Lý Siêng cũng không có ý định tăng số đại lý mà để cho các đại lý này tự phát triển các nhà bán lẻ dưới quyền. Hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất cũng được thực hiện cẩn trọng với 40% vốn vay ngân hàng, 60% vốn từ lợi nhuận giữ lại.
Năm 2010, Cân Nhơn Hòa bán ra thị trường nội địa khoảng 2,1 triệu sản phẩm và chiếm hơn 95% thị phần. Như vậy, sức hấp thụ thị trường Việt Nam hiện vào khoảng hơn 2,2 triệu chiếc cân, chia đều cho hơn 22 triệu hộ dân, nghĩa là cứ 10 hộ thì có 1 hộ đã mua và sử dụng sản phẩm cân. Đối với sản phẩm có độ bền cao và không được sử dụng thường xuyên như cân, con số này cho thấy dư địa thị trường không còn nhiều. Đây chính là bài toán cốt yếu cho chiến lược tăng trưởng của Cân Nhơn Hòa.
Cuối năm 2008, người ta có lẽ đã phần nào đoán ra được đáp án của Cân Nhơn Hòa khi ông chủ Lý Siêng quyết định xây nhà máy ở Trung Quốc. Nhà máy này được đặt tại Khu Công nghiệp Giang Bình, thành phố Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, rộng hơn 6 ha, tương đương nhà máy chính ở Việt Nam với tổng vốn đầu tư 6 triệu USD. Trung tuần tháng 9.2010, nhà máy đã được hoàn thành một phần và đã đi vào hoạt động với gần 100 công nhân chuyên lắp ráp sản phẩm và bán tại Trung Quốc. Đến nay, Cân Nhơn Hòa vẫn là công ty tư nhân duy nhất của Việt Nam có dự án đầu tư ở Trung Quốc. Người được tin tưởng giao phó nhà máy này là một trợ lý tin cậy của ông Lý Siêng.
Tuy nhiên, với 95% thị phần, thị trường nội địa vẫn là xương sống của Cân Nhơn Hòa và ông chủ Lý Siêng có vẻ quyết tâm giữ cho được thị trường này. Bằng chứng là chiến thuật tạo ra nhu cầu để thúc đẩy tăng trưởng mà ông đang sử dụng.
Khoảng giữa năm 2010, tại các quầy hàng siêu thị ở TP.HCM bắt đầu xuất hiện những chiếc cân treo mini đủ màu xanh đỏ tím vàng của Cân Nhơn Hòa. Kích thước chỉ bằng nửa bàn tay, giá bán khoảng 30.000 đồng, chiếc cân treo bỏ túi đầu tiên này đã gây xôn xao thị trường. Các bà nội trợ hồ hởi vì đã có vũ khí đối phó với nạn cân điêu, cân thiếu. Các ông chủ hàng rong làm ăn đàng hoàng cũng lấy lại được cơ hội cạnh tranh lành mạnh nhờ chiếc cân này. Nhưng thu lợi lớn nhất vẫn là Cân Nhơn Hòa khi hàng làm ra không kịp bán. Gần đây nhất, khi tham gia Hội chợ Hàng Việt Nam chất lượng cao tại TP.HCM vào giữa tháng 5.2011, theo chị Trang, hơn 3.000 chiếc cân treo Nhơn Hòa đã được bán hết chỉ trong 6 ngày.
Cân Nhơn Hòa cũng bắt đầu tính chuyện làm phình to chiếc bánh thị trường bằng việc mở rộng ra vùng sâu vùng xa mà trước đây đã để cho các đối thủ chiếm lĩnh. “5 năm tới, Nhơn Hòa sẽ phủ sóng từ Nam chí Bắc, đặc biệt là các vùng nông thôn trước đây chúng tôi chưa đặt chân tới”, chị Trang cho biết.
Luôn tạo ra những cú hích là chiến lược các công ty gia đình thường sử dụng để tạo động lực mới, kích thích công ty phát triển, tránh khỏi bẫy tăng trưởng cầm chừng. Với chiến lược vừa mở rộng thị trường, vừa tạo cú hích trên thị trường hiện có bằng sản phẩm mới, ông chủ Lý Siêng của Cân Nhơn Hòa có vẻ như đang đi đúng con đường này.
Trong khi đó, để hóa giải quy luật “nhị nan” của công ty gia đình, tức khó có thể đồng thời giữ được quyền sở hữu và đưa công ty liên tục tăng trưởng, Cargill và Koch Industries đều đi theo con đường đa ngành. Cargill xuất phát từ lĩnh vực nuôi trồng và phân phối nông sản nay đã dẫn đầu trong nhiều lĩnh vực khác như thực phẩm, dược phẩm và chăm sóc sức khỏe, đầu tư nhà máy điện, gas và thậm chí cả quản lý rủi ro tài chính. Koch, từ sản phẩm hóa dầu đã mở rộng sang khoáng sản, chăn nuôi, phân bón, giấy, cáp quang và tài chính. Đây có thể là con đường trong tương lai mà Cân Nhơn Hòa và các công ty gia đình của Việt Nam phải cân nhắc để đưa công ty tăng trưởng bền vững.
Năm nay 61 tuổi, ông Lý Siêng chưa có ý định về hưu. Mỗi ngày ông đều có mặt ở văn phòng, chạy xe máy trong khuôn viên nhà máy thăm các xưởng sản xuất và vẫn là người đưa ra ý tưởng sản phẩm mới, tiêu biểu là chiếc cân treo mini đã nói ở trên. Tuy nhiên, áp lực tìm người kế nhiệm là điều ông Lý Siêng sẽ phải đối mặt trong tương lai gần.
Việc quản lý công ty gia đình có lẽ đã được ông chuẩn bị trước khi các con ông đều được đưa sang Mỹ du học về quản lý và kinh doanh và 4 người đã trở về giúp cha. Hai vị trí quan trọng trong Công ty hiện nay là do các con ông nắm giữ. Phải chăng 1 trong 2 người sẽ kế nhiệm cha mình? “Cha tôi có lẽ cũng đã nhắm một ai đó làm người kế nhiệm, nhưng ông chưa bao giờ nói với chúng tôi về điều này. Đó có thể là người nhà, cũng có thể là người ngoài. Đối với chúng tôi, điều đó không quan trọng, miễn là tốt cho Công ty”, chị Trang nói.
Hiện nay, tất cả các con của ông Lý Siêng đều sống chung với cha mẹ trong ngôi nhà lớn ở quận Bình Thạnh. Sau 13 năm sống và kinh doanh ở một đất nước đề cao tự do cá nhân như Mỹ, chị Trang rất hãnh diện về lối sống này của gia đình mình. “Gia đình nhỏ của tôi sống trong một gia đình lớn. Các con tôi rất vui vì lúc nào cũng có anh chị em họ để chơi và được ông bà ngoại thương yêu. Ba tôi nấu ăn rất ngon và luôn là người nấu bữa sáng và bữa tối cho cả nhà”, chị chia sẻ.

Tìm câu trả lời cho vấn đề nghề nuôi yến: Sao cho bền vững?

Các vùng nuôi yến ở Việt Nam có thể tính từ Nghệ An trở vào đến đảo Phú Quốc, Cà Mau. Nhiều nhất là TP.HCM (tính cả Cần Giờ) khoảng vài trăm nhà yến, tiếp đến là Khánh Hòa khoảng 100, Bình Định có 60-70 nhà; sau đó là Tiền Giang, Kiên Giang, Phú Yên, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Bạc Liêu, Quảng Ngãi, Long Thành, Bình Dương, Đồng Nai..., mỗi tỉnh đều có hàng chục nhà yến.
Indonesia là nước có sản lượng yến lớn nhất. Năm 2008, riêng nước này cung cấp 70% nhu cầu tổ yến cho toàn thị trường. Thái Lan đứng thứ hai. Tiếp theo là Malaysia. Năm 2008, nước này sản xuất 25 tấn tổ yến, có giá trị tương đương 1 tỷ RM. Hiện Malaysia đang phấn đấu đạt mức 30% thị trường toàn cầu, tạo ra doanh thu 1,45 tỷ USD vào năm 2020.
“Đón” nghề
Mô hình khu nuôi yến tập trung
Năm 2008, trọng lượng tổ yến tiêu thụ trên thị trường thế giới là 260 tấn, đạt doanh thu khoảng 4,3 tỷ đô la Mỹ. Thị trường nhập khẩu chính là Hồng Kông chiếm 50% lượng mua bán tổ yến thế giới; cộng đồng người Hoa ở các nước Mỹ, Australia, New Zealand tiêu thụ khoảng 15%; Trung Quốc 8%, Đài Loan 4% và Macao 4%.
Riêng năm 2006, các nơi này đã tiêu thụ 160 trên tổng số 200 tấn tổ yến được bán ra trên toàn thế giới. Ngoài ra, tổ yến còn được bán sang các nước Canada, Châu Âu, Singapore, Nhật Bản, Nam Triều Tiên...
Giá bán tổ yến đã sơ chế tại Hồng Kông từ 6.000 - 7.000 USD/kg. Trừ vàng, tổ yến sơ chế đắt hơn bất cứ kim loại nào trên thế giới.
Nghề nuôi yến du nhập vào Việt Nam từ năm 2004, phát triển ra các hộ dân năm 2005. Hiện nay, nuôi chim yến tại đây đã dần thành một nghề với khoảng vài ngàn nhà yến, trong đó một số ít hộ gia đình có 5-6 nhà yến.
Một nhà nuôi yến thu hoạch trung bình 700-800gr đến 1kg tổ yến mỗi tháng, có nhà thu hơn 10kg/tháng. Tuy nhiên cũng có không ít căn nhà sau một số năm xây dựng, chim vào rất ít, chim con sau khi sinh ra đều bay mất.
Qua nhiều năm tham gia hoạt động và theo dõi phát triển của nghề mới này tại Việt Nam, tôi thấy, hiện có khoảng 60-70% nhà yến xây dựng đã có chim vào làm tổ, riêng ở Bình Định đạt đến 80%, nhưng năng suất không đồng đều và phải chỉnh sửa nhiều lần.
Các vùng nuôi yến ở Việt Nam có thể tính từ Nghệ An trở vào đến đảo Phú Quốc, Cà Mau. Nhiều nhất là TP.HCM (tính cả Cần Giờ) khoảng vài trăm nhà yến, tiếp đến là Khánh Hòa khoảng 100, Bình Định có 60-70 nhà; sau đó là Tiền Giang, Kiên Giang, Phú Yên, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Bạc Liêu, Quảng Ngãi, Long Thành, Bình Dương, Đồng Nai..., mỗi tỉnh đều có hàng chục nhà yến.
Đầu tư vào nghề này thường là những người Việt Nam có điều kiện kinh tế khá, vì vốn đầu tư ban đầu khá cao, tốc độ hoàn vốn lại chậm. Hiện tại Việt Nam có một số nhà đầu tư nước ngoài như Malaysia, Singapore, Thái Lan, Indonesia. Các nhà đầu tư nước ngoài này thường tự làm nhà yến cho mình, và đã khá thành công.
Về đội ngũ nhà thầu tư vấn, ở Việt Nam có khoảng 3-5 nhà tư vấn có tên tuổi, trong đó có những nhà tư vấn tuy không xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng nhiều nhà yến do họ làm đều có kết quả tốt.
Trong tháng 10/2010, có một chuyên gia tư vấn có uy tín ở Đông Nam Á vào Việt Nam. Ông này dự báo, đến năm 2020, Việt Nam sẽ có khoảng 10.000 nhà yến, tức gấp 6-7 lần hiện nay.
Chưa ai tính được sản lượng tổ yến của Việt Nam trong năm 2010. Mặc dù vậy có thể đưa ra một tư liệu cụ thể đã được đăng tải chính thức: Huyện Cần Giờ (TP.HCM) có 77 căn nhà nuôi chim yến (với tổng diện tích xây dựng 34.688,4m²), trong đó 17 căn có sản phẩm thu hoạch và 60 căn mới xây dựng, gây nuôi chưa có sản phẩm.
Sản lượng thu hoạch của 17 nhà nuôi chim yến ở đây qua các năm như sau:
Năm 2008 là 60kg, năm 2009 thu 250kg, năm 2010 thu 400kg. Giá thị trường khoảng 35 triệu đồng/kg yến thô. Như vậy, năm 2010, tổng trị giá tổ yến của Cần Giờ đạt khoảng 14 tỷ đồng.
Nhưng để có kết quả này, đòi hỏi vốn đầu tư xây dựng nhà nuôi chim yến rất lớn. Hơn nữa, sản lượng này chỉ tập trung vào một số ít nhà.
Và “nuôi” nghề
Việt Nam nằm trong vùng có điều kiện thiên nhiên thích hợp với chim yến, lại có bờ biển dài, nhiều hồ ao, sông ngòi, cửa sông, là những yếu tố mang lại nguồn thức ăn phong phú cho chim yến. Nhưng, chim yến là một loài sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, có đặc
tính sinh học đặc biệt. Vì vậy, nuôi yến hoàn toàn không phải một nghề dễ.
Sự phát triển của chim yến có mối quan hệ tỷ lệ thuận với bảo vệ môi trường. Nếu môi trường thiên nhiên bị phá hủy do đô thị hóa, chim yến có thể sống trong “khách sạn 5 sao”, nhưng thức ăn không đủ, chim buộc phải đi rất xa để kiếm ăn, sự tiêu tốn năng lượng sẽ làm cho số lượng quần đàn giảm xuống.
Trong nuôi yến, cần chú ý mối cân bằng sinh học giữa côn trùng – chim yến - con người, nghĩa là cần nghĩ đến sự cân bằng giữa lượng thức ăn có trong tự nhiên với tổng đàn yến và số nhà yến mà con người xây dựng.
Có thể nêu một ví dụ về cân bằng sinh học ảnh hưởng đến sản lượng: Trong khi tại Indonesia, Malaysia, tỷ lệ thất bại của nuôi yến trong nhà là 40% thì tại Philippines, tỷ lệ thành công là 83%.
Lý do tỷ lệ thất bại ở Indonesia và Malaysia khá cao là vì số trại và nhà nuôi yến phát triển nhanh hơn số lượng chim.
Indonesia có công nghệ nuôi yến trong nhà rất phát triển, nhưng thất thu một phần vì nuôi yến thiếu kiểm soát. Ngoài ra, cần biết một đặc điểm của loài yến là phân bố không đồng đều. Ở Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa có rất nhiều hang yến, nhưng mỗi tỉnh chỉ có một hang có sản lượng cao nhất đạt 60-70% sản lượng tổ của mỗi tỉnh.
Trong nghề nuôi yến, cơ hội thành công nhiều nhất là xây nhà ở gần nhà có nhiều yến (trung tâm yến) hoặc gần đảo yến (cách khoảng 10km trở xuống là tốt nhất).
Ngày nay, người ta có thể sử dụng máy gọi chim và quan sát đường chim bay, vùng chim kiếm mồi để xem sau thời gian bao lâu thì gọi được bao nhiêu chim về, từ đó xác định địa điểm xây dựng.
Chim yến có thói quen trở về nơi mà nó sinh ra, nhất là chim bố mẹ, nên thường chỉ dụ được chim con.
Vì vậy, ở khu vực có nhiều nhà yến thì nhà mới xây dựng cần phải có kỹ thuật cao, như băng tiếng gọi bầy đàn tốt nhất, chất dẫn dụ tốt, các điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm, độ thông thoáng phải thật phù hợp với yêu cầu sinh lý sinh thái của chim, thì chim mới vào nhiều và ở lại. Nếu không, chim sinh con ra trong nhà đó cũng sẽ lại đi sang các nhà khác có điều kiện tốt hơn.
Quy hoạch những vùng nuôi yến cách xa thành phố là cách tốt nhất để vừa phát triển đàn yến, tăng sản lượng tổ yến khai thác, vừa bảo vệ môi trường sống của con người.
Hiện nay ở Việt Nam đã có các khu nuôi yến tập trung như ở xã Tam Thôn Hiệp (huyện Cần Giờ, TP.HCM). Tỉnh Ninh Thuận cũng mới có dự án quy hoạch nuôi yến tập trung hai bên bờ sông Dinh. Một xu hướng mới hiện nay ở nước ngoài là hình thành các khu nuôi yến tập trung trong vườn sinh thái Ecopark, với yêu cầu là ở xa khu dân cư 10-50 km.
Hiện Malaysia có 20 dự án nuôi yến như vậy, trong đó Ecopark tại Johor Baruh có 100 đơn vị nhà yến, kích thước mỗi đơn vị khoảng 6 x 22m. Ở Indonesia, các khu nuôi yến tập trung nhiều tại vùng nông thôn và hải đảo.
Việt Nam có nhiều đảo, có thể quy hoạch nuôi yến trên một số đảo. Mô hình xây dựng nhà yến trên đảo đã hoàn tất. Theo tổng kết đề tài năm 2008, nhà yến đảo Bình Định đã có mấy chục tổ yến. Mô hình xây nhà nuôi yến trên đảo ở Việt Nam đã chứng minh chim yến đảo có thể vào nhà sống bình thường khi ta tạo dựng điều kiện sinh thái phù hợp cho nó.
Để nghề nuôi yến phát triển bền vững, nuôi côn trùng cũng là một hướng đang được bổ cứu hiện nay. Một số nước trong vùng đã hoàn thiện kỹ thuật xây nhà nuôi côn trùng sát nhà yến.
Ngoài ra cần phải trồng thêm các loài cây mà yến yêu thích và bảo vệ môi trường thiên nhiên ven biển. Thái Lan đã bảo tồn được khu rừng ngập mặn nên đàn chim yến của Thái Lan phát triển rất nhanh.
Sự thành công về nghề yến của các nước Đông Nam Á đã phát triển đến mức hình thành các tổ chức ngành nghề, như Hiệp hội các nhà nuôi yến, Hiệp hội thương mại tổ yến, để những người có cùng sự quan tâm có thể trao đổi thông tin thương mại, kỹ thuật, điều hòa hoạt động… 

Giới thiệu với bạn về việc nên “Quyết định sớm, hoặc không bao giờ!”

Hoàng đã thành lập trung tâm Eka Vietnam chuyên tư vấn nuôi yến vào năm 2005, và tiến hành xây dựng thành công những mô hình nuôi yến trong nhà đầu tiên tại Việt Nam. Anh đã tham gia vào nhiều dự án nghiên cứu đổi trứng chim yến cỏ và ấp chim con cũng như tư vấn xây dựng nhà yến thành công cho nhiều khách hàng ở Đông Nam Á.

Chè tổ yến
Năm 2004, khi còn là sinh viên năm thứ ba, trong một lần làm thêm với công việc hướng dẫn đoàn doanh nhân và quan chức Indonesia tham dự hội chợ Vietnam Expo, Hoàng đã gặp ông bà TS. sinh vật học Elisa Nugroho. Ông Nugroho lúc đó là Chủ tịch Hội người nuôi yến Indonesia, và được coi là người phát minh ra nghề nuôi yến hiện đại.
Họ sang Việt Nam tham dự hội chợ với ý định mở rộng thị trường và phát triển nghề nuôi chim yến ở Việt Nam. Hoàng đã đưa ông bà Nogroho đi gõ cửa nhiều doanh nghiệp để tìm hướng hợp tác, nhưng không thành.
Khi ông bà tiến sĩ về nước, Hoàng đánh bạo xin làm đại lý ở Việt Nam phân phối thiết bị nuôi yến, mặc dù thực sự chưa biết sẽ bán cho ai, bán như thế nào...
Theo học nghề nuôi yến trực tiếp cùng TS. E.Nugroho và TS. When Drato tại Indonesia và hầu hết các nước Ðông Nam Á, Lê Danh Hoàng đã tiến hành nghiên cứu về điều kiện tự nhiên và thói quen sinh học của loài chim yến ở Việt Nam.
Luận văn về tiềm năng và định hướng phát triển của nghề nuôi yến tại Việt Nam và bản đồ chi tiết các tỉnh có thể phát triển nghề của anh được viết trong thời gian theo học tại Hoa Kỳ được đánh giá cao.
Hoàng đã thành lập trung tâm Eka Vietnam chuyên tư vấn nuôi yến vào năm 2005, và tiến hành xây dựng thành công những mô hình nuôi yến trong nhà đầu tiên tại Việt Nam. Anh đã tham gia vào nhiều dự án nghiên cứu đổi trứng chim yến cỏ và ấp chim con cũng như tư vấn xây dựng nhà yến thành công cho nhiều khách hàng ở Đông Nam Á.
Anh hiện là Tổng giám đốc Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ - Xuất nhập khẩu Chấn Hưng (yến sào Hoàng Yến). Và dưới đây là tâm sự của người đã có 7 năm trong nghề nuôi và kinh doanh sản phẩm từ chim yến:

Tôi bước lên máy bay sang Indonesia học nghề nuôi yến vào một buổi chiều tháng 3. Dưới cánh máy bay là cả một vùng xanh mênh mông của rừng ngập mặn Cần Giờ, những cánh đồng lúa mênh mông của Long An, Gò Công, và sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ cùng muôn dòng sông uốn khúc.
Lòng tôi dâng lên một nỗi bồn chồn, không chỉ vì đây là lần đầu tiên ra nước ngoài, mà còn vì trách nhiệm tôi đã đặt ra cho mình là phải mang một nghề mới về cho Việt Nam. Đây phải là nghề có thể giúp tôi và nhiều người khác làm giàu.
Bảy năm sau, trên vùng đất Cần Giờ dưới cánh máy bay ngày đó, giờ là một làng nuôi yến với hàng trăm căn nhà yến.
Công ty chúng tôi từ một nhóm ba người đã thành hơn 150 người, với hệ thống nhà nuôi yến, xưởng chế biến và chi nhánh bán hàng toàn quốc.
Định kiến chim yến chỉ sống trong hang động gần biển đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều thế hệ người Việt Nam. N
hững ngày đầu khởi nghiệp, một trong những trở ngại lớn nhất của chúng tôi là mọi người không tin rằng chim yến sẽ nuôi được. Chỉ khi chứng kiến tận mắt những tổ yến trong nhà người ta mới tin.
Nguyên lý của nghề nuôi yến thực ra đơn giản như một điều tự nhiên là nước sẽ chảy về chỗ trũng. Đó là tạo cho chim yến môi trường sống thật giống môi trường ở những hang động tự nhiên. S
au đó dùng âm thanh bầy đàn gọi chúng về. Gặp môi trường sống thuận lợi, chim yến sẽ ở lại và sinh con. Người nuôi chỉ cần đợi cho chim non biết bay là có thể hưởng lợi từ thu hoạch tổ yến.
Bằng nghiên cứu nhiều năm trên hàng trăm căn nhà yến tự nhiên ở Indonesia, TS. sinh vật học Nugroho đã chế tạo ra hàng trăm loại thiết bị khác nhau để tạo ra môi trường sống thuận lợi cho chim yến, đồng thời ông cũng viết hàng chục đầu sách về kỹ thuật này.
Những căn nhà yến nhân tạo đầu tiên của Việt Nam áp dụng kỹ thuật của ông. Bằng những cải tiến và quy trình quản lý chặt chẽ hơn, hiện Hoàng Yến đã sản xuất được tất cả các trang thiết bị cho nghề này, và xuất khẩu “ngược lại” thị trường Indonesia.
Theo những thống kê chưa đầy đủ của Hoàng Yến, mỗi năm, người Việt Nam tiêu thụ hàng trăm triệu USD giá trị tổ yến. Hàng trăm công ty, cửa hàng bán tổ yến mọc lên như nấm sau mưa trên khắp những con phố của TP.HCM, Hà Nội đến các thành phố khắp cả nước.
Tuy nhiên, thị trường lớn hơn gấp nhiều lần nằm ở Trung Quốc đại lục, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước có người Hoa sinh sống. Gần đây, Hoàng Yến cũng đã bán được tổ yến cho người Đức và Úc.
Nhưng, với hàng vạn căn nhà yến đã và đang sắp mọc lên trên khắp Đông Nam Á, liệu thị trường có hấp thụ nổi lượng sản phẩm?
Câu trả lời không nằm ở ý chí của nhà đầu tư hay quy hoạch của các chính phủ. Nó nằm ở một đặc tính đơn giản của sự cân bằng sinh thái. Thuyết cân bằng này cho biết, số lượng chim trên một đơn vị diện tích lãnh thổ sẽ cân bằng với lượng côn trùng sản sinh tự nhiên ở lãnh thổ này. Nếu số lượng chim vượt quá sẽ thiếu thức ăn và đàn chim tự khắc bị giới hạn.
Indonesia và Malaysia với hàng trăm ngàn căn nhà nuôi yến ở mỗi quốc gia đã sắp chạm mốc cân bằng sinh thái này. Chính vì vậy, sản lượng không tăng nhiều trong những năm gần đây. Thậm chí một số vùng ở Indonesia còn chứng kiến sự giảm sút của đàn chim.
Sự cân bằng này cũng khiến nhiều căn nhà nuôi yến tại những vùng như Gò Công (Tiền Giang), Cần Giờ (TP.HCM) hay Sông Đốc (Cà Mau) đã không đạt kết quả như mong đợi.
Tỷ lệ thành công chỉ khoảng 30%, nằm phần lớn tại những căn nhà đã xây đầu tiên trong vùng. Quá nhiều nhà nuôi trong một khu vực đồng nghĩa với tỷ lệ thất bại tăng cao. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, chỉ nên có từ 10 - 20 căn nhà nuôi yến tại một khu vực sẽ cho kết quả cao nhất.
Về khía cạnh quản lý, kinh nghiệm của Malaysia là một bài học đáng lưu tâm. Họ không gõ cửa từng nhà, đếm từng tổ yến để thu thuế, vì điều này gần như không thể thực hiện được. Thay vào đó, họ đánh thuế khoảng 35USD trên mỗi ký tổ yến xuất khẩu.
Do phần lớn sản lượng sản xuất của các nước Đông Nam Á cuối cùng cũng sẽ xuất khẩu, nên đây là cách nhà nước vẫn thu được thuế trong khi người kinh doanh được hoạt động hợp pháp và được bảo vệ.
Với vài ngàn căn nhà ở Việt Nam vào thời điểm tháng 8/2011, chúng ta mới đi được khoảng 30% quãng đường phát triển nghề nuôi yến cho đến khi số lượng nhà yến quá nhiều để đạt hiệu quả cao. Điều này sẽ xảy ra trong vòng khoảng 5 năm tới. Các nhà đầu tư nếu có quan tâm đến nghề này, theo tôi, nên quyết định sớm, hoặc không bao giờ!”.

Cùng tìm hiểu về nuôi côn trùng: Nghề “ăn theo”

Hiện nay, người ta đang chú ý nuôi một số loài ruồi quả (ruồi dấm). Nuôi ruồi quả không khó, giống cũng thường có sẵn trong thiên nhiên, chỉ cần thu hút chúng về. Thực phẩm nuôi chúng rất phong phú và rẻ (phế liệu các nhà máy chế biến hoa quả, thực phẩm, mía đường...), chỉ cần điều chỉnh hàm lượng đường, độ pH, độ ẩm, nhiệt độ cho phù hợp.
Người nuôi cũng không phải mua con giống, không phải cho ăn. Tuy nhiên, trong tương lai gần, yếu tố giới hạn trong nghề này có thể sẽ chính là thức ăn cho chim.
Thức ăn của chim yến là nhiều loài côn trùng, trong đó có nhiều loài gây hại cho cây trồng, vật nuôi và con người, nên nuôi chim yến được coi là một phương pháp phòng trừ côn trùng gây hại cho môi trường.
Trước nay, việc phát triển nuôi chim yến chủ yếu phụ thuộc vào việc phát triển nhà nuôi yến, vì thức ăn cho chim yến vốn rất phong phú ở các nước nhiệt đới. Việc nuôi hay thu hút côn trùng chỉ với mục đích làm tăng khả năng hấp dẫn chim cho nhà yến.
Nhưng để phát triển công nghiệp nuôi chim yến mạnh mẽ và vững chắc, không thể không chú trọng giải quyết thức ăn cho những đàn yến hàng trăm triệu con và đang ngày càng gia tăng.
Chim yến chỉ có thể đớp mồi trên không trung mà không thể mổ, nhặt mồi trên mặt đất như gà, vịt. Đây là khó khăn lớn nhất khi muốn công nghiệp hóa làm thức ăn cho chim yến.
Thức ăn của chim yến là các loài côn trùng nhỏ bay lên hay bị gió cuốn lên từ các đầm lầy, ao hồ, sông suối (như muỗi, phù du…), từ các thảm cỏ hoang dã, từ cánh đồng, ruộng vườn, từ các kiểu rừng trong đó có rừng ngập mặn, từ chợ búa, bãi rác, trại chăn nuôi.
 Nhìn chung, ở đâu có cây cối, rác rưởi, phế thải nông – lâm nghiệp, có côn trùng, chân khớp là có thức ăn cho chim yến.
Thường các côn trùng chân khớp này bị cuốn và bay theo các luồng gió, luồng không khí và chim yến lợi dụng việc này để kiếm ăn. Nhà yến làm dọc theo các dòng khí lưu này có nhiều khả năng thu hút chim yến hơn các nơi khác.
Tuy nhiên, chỉ có rừng nhiệt đới ẩm ướt, rừng ngập mặn và thảm cỏ đất ngập nước mới là nơi có nhiều côn trùng quanh năm. Các khu vực khác chỉ sản sinh côn trùng trong một số thời điểm, với một số điều kiện nhất định. Do vậy, để chủ động nguồn thức ăn cho chim yến, chúng ta cần nuôi trên quy mô lớn một số loài côn trùng.
Hiện nay, người ta đang chú ý nuôi một số loài ruồi quả (ruồi dấm). Nuôi ruồi quả không khó, giống cũng thường có sẵn trong thiên nhiên, chỉ cần thu hút chúng về. Thực phẩm nuôi chúng rất phong phú và rẻ (phế liệu các nhà máy chế biến hoa quả, thực phẩm, mía đường...), chỉ cần điều chỉnh hàm lượng đường, độ pH, độ ẩm, nhiệt độ cho phù hợp.
Thị trường có bán một số dụng cụ chuyên dụng nuôi ruồi. Có thể làm nhà nuôi ruồi ngay sát nhà yến. Trong nhà làm nhiều dàn giá nuôi và có đường ống với các quạt để thổi ruồi vào nhà cho chim yến ăn.
Cũng có thể nuôi ruồi để lấy nhộng. Nhộng ruồi có thể bảo quản ở nhiệt độ mát hàng năm trời để khi cần lấy ra cho nở thành ruồi. Cũng có thể nuôi ruồi lấy trứng, trộn với bột môi trường thích hợp, đóng hộp, khi cần bổ sung nước đủ ẩm cho nở.
Nuôi côn trùng cho chim yến ăn cũng là một chuyên ngành như nuôi chim yến, cần có nhiều kiến thức và kinh nghiệm. Hiện nay, Viện Công nghệ Hóa học đang chuyển giao công nghệ nuôi công nghiệp một số côn trùng không gây hại nông - lâm nghiệp, không truyền bệnh, làm thức ăn nuôi chim yến.
Nguồn dinh dưỡng để nuôi côn trùng là phế thải nông - lâm nghiệp (mùn cưa, rơm rạ, trấu, cám, phế thải nhà máy rau quả, chế biến thủy hải sản...).
Một số cây họ si đa như sung, gừa, si, đa... có trái có nhiều côn trùng nhỏ, hay những cây có hoa hấp dẫn côn trùng như keo dậu (táo nhơn), ômôi, dừa nước... cũng là những loài thích hợp trồng ở vùng nuôi yến.
Việc trồng và nuôi dưỡng các loài cây này rất cần quan tâm hạn chế dùng thuốc bảo vệ thực vật, vì các hóa chất này không những tận diệt nhiều côn trùng là thức ăn của chim yến, mà còn có thể làm ô nhiễm tổ yến.
Khoa học đã chứng minh, những thuốc có tồn lưu lâu còn có thể tích lũy trong chuỗi thức ăn gây ngộ độccho chim, hoặc làm mỏng vỏ trứng chim, khiến trứng dễ bị vỡ...
Hiện nguồn thức ăn cho chim yến trong thiên nhiên còn khá dồi dào. Nhưng trong tương lai gần, với sự phát triển khá “nóng” nghề nuôi chim yến như hiện nay, “thức ăn nhân tạo” cho yến chắc chắn sẽ là một nhu cầu, và nuôi côn trùng làm thức ăn cho yến theo hướng công nghiệp hóa sẽ theo đó trở thành một nghề “hái ra tiền”.

Chia sẻ cùng bạn sự dịch chuyển cấp thấp

“Việc giá nhân công TQ tăng nhanh, các khu vực DN sử dụng hàm lượng lao động nhiều trong giá thành sản phẩm sẽ bị ảnh hưởng, buộc khối DN này phải dịch chuyển sang các nước khác, trong đó có Việt Nam”, ông Trần Việt Tiến, Giám đốc Công ty Gia Long, nhận định. Nếu năm 1981 TQ thay thế Ấn Độ trong vai trò trung tâm gia công số 1 của hãng Nike thì mới đây, Việt Nam đã qua mặt TQ ở vị trí này. Theo số liệu mới nhất từ Nike, đến năm 2010, Việt Nam đã vượt qua TQ về sản lượng giày gia công cho Nike, với tỷ lệ 37% so với mức 36% của TQ.
Những đơn hàng “nước hai”
Gia công giày xuất khẩu - Ảnh: Quý Hòa
Ông Phạm Xuân Hồng, Chủ tịch HĐQT Công ty CP May Sài Gòn 3, cho hay, dù thị trường xuất khẩu chủ lực của công ty hiện nay là Nhật, nhưng việc đơn hàng của công ty năm nay tăng gần 20% so với cùng kỳ năm ngoái là do nhà đặt hàng chuyển đơn hàng sang Việt Nam thay vì chỉ dồn sang TQ như trước đây.
Không phải ngẫu nhiên Tạp chí kinh tế Pháp Challenges lại nhận định: Việt Nam đang dần trở thành nước sản xuất gia công cho TQ. Năm 2011, TQ cam kết tăng lương trung bình lên khoảng 15%.
Theo kế hoạch, từ nay đến hết năm 2015, lực lượng lao động tại quốc gia này sẽ được hưởng mức lương tăng gấp đôi mức lương hiện nay. Cam kết của TQ cùng hành động cụ thể khiến nhiều đơn hàng gia công từ TQ chuyển thẳng sang Việt Nam do nhân công rẻ hơn hẳn.
Cụ thể, nhân công trong ngành may mặc Việt Nam thu nhập khoảng 90 USD/tháng, còn TQ là 260 USD/tháng. Bên cạnh đó, công đoàn TQ cũng kiểm soát chặt hơn các DN gây ô nhiễm, sử dụng nhiều lao động...
“Việc giá nhân công TQ tăng nhanh, các khu vực DN sử dụng hàm lượng lao động nhiều trong giá thành sản phẩm sẽ bị ảnh hưởng, buộc khối DN này phải dịch chuyển sang các nước khác, trong đó có Việt Nam”, ông Trần Việt Tiến, Giám đốc Công ty Gia Long, nhận định.
Nếu năm 1981 TQ thay thế Ấn Độ trong vai trò trung tâm gia công số 1 của hãng Nike thì mới đây, Việt Nam đã qua mặt TQ ở vị trí này. Theo số liệu mới nhất từ Nike, đến năm 2010, Việt Nam đã vượt qua TQ về sản lượng giày gia công cho Nike, với tỷ lệ 37% so với mức 36% của TQ.
Các hãng giày Adidas, Puma, Coach, Prada... cũng đang có xu hướng chuyển dịch đơn hàng sang các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam, nhằm tạo một nguồn cung ổn định hơn với chi phí sản xuất phù hợp nhất.
Một DN xuất khẩu giày quy mô lớn hiện nay ở Bình Dương với kim ngạch xuất khẩu hàng chục triệu USD/năm cũng xác nhận, trong gần 30 triệu USD kim ngạch xuất khẩu đạt được của 6 tháng đầu năm, gần 15% là nhờ khách đặt hàng chuyển bớt từ TQ về.
Không chỉ gia công, nhiều tập đoàn TQ còn chuyển thẳng sang Việt Nam với hình thức thành lập công ty. Sự có mặt của nhà máy hãng xe Lifan trị giá 20 triệu USD tại Việt Nam là một ví dụ.
Ngay như Tập đoàn Foxconn cũng quyết định đặt nhà máy tại Việt Nam với hơn 56.000 lao động. Lý do lớn nhất khiến Foxconn chọn Việt Nam là do chi phí nhân công tại TQ đang tăng mạnh, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của tập đoàn.
Ngoài ra, những ưu đãi của thị trường quốc tế dành cho Việt Nam cũng là lý do các DN TQ chuyển các đơn hàng sang Việt Nam để lách thuế.
Một chuyên gia kinh tế cho biết, hiện Mỹ đánh thuế đến 37% sản phẩm bu-gi máy nổ của TQ, nhưng chỉ đánh 5% đối với bu-gi Việt Nam. Tương tự, 6% đối với đèn tiết kiệm năng lượng LED TQ, nhưng lại không đánh thuế đối với đèn LED Việt Nam.
Đã rẻ còn phải rẻ hơn
Nhựa Nhựt Thành nhận được đơn hàng gia công các chi tiết vật tư nhựa textile, phục vụ cho ngành sợi từ đối tác TQ. Là một đơn vị chuyên gia công các mặt hàng nhựa chuyên dụng, có đơn hàng là một hạnh phúc lớn.
Thế nhưng, chỉ sau một tháng, sau khi hoàn tất hợp đồng đầu tiên và duy nhất, Nhựt Thành đã từ chối TexHong, đơn vị đặt hàng, mà không chút tiếc nuối.
Giá trị đơn hàng quá rẻ so với nguồn lợi từ đơn hàng thấp hơn hẳn nếu sản xuất hay gia công cho các quốc gia khác như Nhật, Singapore, Pháp... khiến Nhựt Thành không dám nhận thêm đơn hàng gia công dù khách hàng có yêu cầu.
Ông Lý Anh Tuấn, chủ DN tư nhân nhựa Nhựt Thành, chia sẻ: “Điều kiện tiên quyết mà DN TQ đưa ra luôn là giá rẻ. Do vậy, để có được đơn hàng, các DN Việt Nam gần như phải cạnh tranh nhau về giá. Mà cạnh tranh về giá càng lớn thì DN Việt Nam càng thiệt, bởi phần lợi nhuận chảy về chủ đơn hàng”.
Ông Lý Anh Tuấn phân tích, việc nhận đơn hàng giá rẻ buộc DN phải điều tiết chi phí sản xuất, nguyên liệu..., thậm chí phải giảm chất lượng sản phẩm để đáp ứng giá đặt hàng. Điều này dẫn đến DN Việt Nam dễ mất uy tín với thị trường thế giới.
Theo ông Trịnh Chí Cường, Tổng giám đốc Công ty Đại Đồng Tiến, việc sản xuất hàng kém chất lượng bằng cách dùng nguyên liệu rẻ tiền để giảm giá thành trong ngành nhựa nói riêng và các ngành khác nói chung nhằm ứng phó với đơn đặt hàng trước mắt có hại sau này rất lớn.
Không chỉ thiệt về thương hiệu công ty, mà nguồn nguyên liệu rẻ tiền còn gây hại cho hệ thống máy móc, khiến việc sản xuất sau này không trôi chảy.
Ngoài giá thành, một yếu tố khác là số lượng đơn hàng và áp lực thời gian cũng khiến DN Việt Nam gặp khó khi gia công cho TQ.
Ông Lý Anh Tuấn cho biết, với những đơn hàng số lượng lớn, các đơn vị gia công tại Việt Nam vẫn không có đủ nội lực để đáp ứng, nhưng lại không có thói quen chia sẻ đơn hàng, hợp tác cùng nhau để hoàn thành đơn hàng đó.
Do vậy, những hợp đồng lớn thường rơi vào tay các công ty trung gian nhận và đặt hàng gia công ở các công ty vệ tinh. Khi đã vướng vào hình thức này, giá trị đơn hàng đã rẻ nay còn rẻ hơn.
Nhìn nhận về bước chuyển dịch gia công từ TQ sang Việt Nam, nhiều DN cho rằng, TQ đang muốn chuyển các mặt hàng mà Thâm Quyến và các nơi khác không muốn sản xuất nữa nhằm xóa đi hình ảnh sản xuất gia công giá rẻ. 
 

Tìm hiểu về vấn đề “Trung Quốc tiến”

Cụ thể, những sản phẩm thuyền buồm trang trí, TQ hiện chỉ sản xuất bằng máy nên sản phẩm không tinh xảo, không có kích thước lớn..., trong khi các “đại gia” TQ, những người sở hữu biệt thự lớn, sang trọng lại cần những sản phẩm này. Nhờ vậy, Thiên Thương có thể đưa hàng sang TQ, với mức độ “phủ sóng” từ Bắc Kinh, Thượng Hải đến Macau, Đài Loan...
Khoảng trống dành riêng
Hội chợ ở Hồng Kông là cửa ngõ cho hàng Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc
Năm 2009, TQ không nằm trong danh sách quốc gia xuất khẩu của công ty Thiên Thương. Thương nhân TQ sang, thăm showroom và tự đánh hàng về theo đường tiểu ngạch. Bất ngờ, năm 2010-2011, thị trường TQ đã chiếm khoảng 12% đơn hàng xuất khẩu của Thiên Hương.
“TQ dù có rất nhiều DN quốc tế lẫn bản địa tham gia, vẫn có những khoảng trống dành riêng cho Việt Nam”, ông Vương Đình Sắc, Giám đốc Công ty Thiên Hương, tự tin khẳng định như vậy. Trong điều kiện nhân công TQ tăng giá như hiện nay, theo ông Sắc, khối ngành nghề thủ công mỹ nghệ cần nhiều lao động và lao động tỉ mỉ để có thể tạo nên các sản phẩm tinh xảo... Việt Nam đang vượt trội hơn TQ.
Cụ thể, những sản phẩm thuyền buồm trang trí, TQ hiện chỉ sản xuất bằng máy nên sản phẩm không tinh xảo, không có kích thước lớn..., trong khi các “đại gia” TQ, những người sở hữu biệt thự lớn, sang trọng lại cần những sản phẩm này. Nhờ vậy, Thiên Thương có thể đưa hàng sang TQ, với mức độ “phủ sóng” từ Bắc Kinh, Thượng Hải đến Macau, Đài Loan...
“Nếu như chịu tìm kiếm, vẫn có đất hứa ngay trong lòng ông lớn” ấy dành cho DN Việt Nam”, ông Trần Việt Tiến, Giám đốc Công ty Gia Long, nhận định.
Theo ông Tiến, tiêu dùng tại các nước giảm trong khi tiêu dùng tại TQ lại tăng do gần đây tiền lương nhân công của TQ tăng nhanh. Điều này đã giúp các DN TQ yên tâm về mặt đầu ra, nhưng đồng thời tốc độ phát triển kinh tế TQ sẽ chậm lại do các chi phí đầu vào của DN tăng. Đó chính là lợi thế của DN Việt Nam.
Theo ông Điền Quang Hiệp, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc MIFACO, do yếu tố lịch sử, ảnh hưởng từ các tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa từ phương Tây mà các DN Việt Nam vẫn đề cao yếu tố chất lượng.
Thế nên, dù giá thành không cạnh tranh được với TQ, nhưng các quy chuẩn chất lượng thì Việt Nam hơn hẳn. Điều này đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày một cao hơn của người TQ.
Bên cạnh đó, nếu chỉ xét trong ngành gỗ, trang trí nội thất, các mặt hàng của TQ vẫn nặng truyền thống rồng phụng trong khi phong cách sản xuất của DN Việt Nam lại rất “Tây” nên dễ dàng chinh phục được những khách hàng TQ vốn đã quen mắt với sản phẩm nội địa.
Không thành củi giữa rừng
Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu Việt Nam với Trung Quốc
Sự tự tin của DN Việt Nam nếu đối chiếu với sự áp đảo về hàng hóa trên cán cân giao thương giữa Việt Nam và TQ rất có thể không được đồng tình. Xét lại, năm 2010, Việt Nam đã xuất khẩu 7,3 tỷ USD sang thị trường TQ, chiếm 10,1% trong tổng kim ngạch của cả nước.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường TQ trong quý I/2011 là 2,1 tỷ USD, tăng 52,41% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ riêng trong tháng 7, xuất khẩu sang TQ đạt 960 triệu USD, tăng khoảng 15% so với tháng 6. Đối lập với bức tranh này là cơn bão nhập siêu từ TQ.
Năm 2010, nhập siêu từ TQ đạt 12,6 tỷ USD, bằng 105% mức nhập siêu của Việt Nam trong cả năm. Tính riêng trong tháng 7, giá trị hàng hóa nhập từ TQ lên đến 1,9 tỷ USD, chiếm 23% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Bên cạnh đó, xuất khẩu sang TQ của DN Việt Nam cũng chỉ dừng lại ở nguồn nguyên liệu thô. Cụ thể, năm 2010, Việt Nam đã xuất khẩu 32 chủng loại mặt hàng sang thị trường TQ. Trong đó chủ yếu là cao su, có kim ngạch đạt 1,4 tỷ USD, với 464,3 nghìn tấn.
Mặt hàng có kim ngạch đứng thứ hai là than đá, với 14,6 triệu tấn, đạt trị giá 961,8 triệu USD, chiếm 13,1% trong tổng kim ngạch. Ngoài ra còn có quặng và khoáng sản, sản phẩm gốm sứ, nguyên liệu nông sản như sắn, điều...
“Việt Nam chỉ xuất khẩu nguyên liệu thô sang TQ. Các sản phẩm này không mang lại giá trị thặng dư cho người Việt”, bà Vũ Kim Hạnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA), nhận xét.
Không ít ý kiến cho rằng, nếu Việt Nam chỉ dựa mãi vào ngành nông lâm thủy sản giá trị thấp để xuất khẩu sang TQ thì bao giờ mới rút ngắn khoảng cách nhập siêu.
“Khó nhưng không phải là không thể. Nếu cạnh tranh lành mạnh, hàng Việt Nam chất lượng cao hoàn toàn có thể cạnh tranh với hàng TQ. DN Việt Nam vẫn có thể xuất khẩu các mặt hàng có giá trị cao sang TQ chứ không chỉ là nguyên liệu thô”, ông Nguyễn Hữu Duy, Giám đốc Edena, khẳng định.
Đồng quan điểm với ông Duy, các DN thành viên Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (HAWA) cũng đang rất tâm huyết với việc sang TQ tìm thị trường. Dự kiến, tháng 10 tới sẽ là thời điểm khoảng 10 DN “đổ bộ” sang Phật Sơn, Quảng Đông, TQ trưng bày và tìm kiếm khách hàng.
Mức độ đầu tư cho lần “TQ tiến” này lên đến 11 tỷ đồng, chưa kể giá trị hàng hóa, thu từ nguồn đóng góp theo hình thức cổ phần của các DN tham gia.
Theo ông Điền Quang Hiệp, dù khách hàng có nhu cầu, nhưng việc phát triển tiêu thụ hàng Việt Nam tại TQ cũng không hề đơn giản. “Với thị trường nội địa, TQ không có trung tâm phân phối, chỉ có những chợ, trung tâm nhỏ... nên điều kiện để DN Việt Nam sang tiếp cận khách hàng cũng hết sức khó khăn”, ông Hiệp chia sẻ.
Ông Hiệp cho biết thêm, DN gỗ Việt Nam vốn quen với sự sòng phẳng trong thanh toán, giao dịch với khách hàng châu Âu, Mỹ... nên khá khó chịu với các thương nhân TQ trong vấn đề thanh toán.
Ngoài ra, do không có tiến trình nhập hàng theo từng quý, từng năm như các đối tác châu Âu, DN TQ thường đợi gần hết hàng mới đặt đơn hàng mới, nên DN Việt Nam dễ rơi vào thế bị động, có đơn hàng là phải dốc sức làm để kịp tiến độ thời gian.
Lấy kinh nghiệm bản thân Công ty Thiên Hương, ông Vương Đình Sắc cho biết, để lấy được hợp đồng xuất khẩu hàng sang TQ, Thiên Hương đã phải tận dụng các hội chợ tại Hồng Kông để tiếp xúc với đối tác, chứng minh tiềm lực và giới thiệu sản phẩm của mình...
Quá trình này cũng mất khá nhiều thời gian. “DN Việt Nam phải mất ít nhất 3 năm tham dự các triển lãm quốc tế tổ chức tại Hồng Kông, TQ. Lần thứ nhất, đối tác chỉ tham quan gian hàng, lần thứ hai đến hỏi thông tin, đến lần thứ ba mới quyết định có giao dịch hay không.
Mỗi năm, chi phí tham dự triển lãm cho một gian hàng nhỏ lên đến gần 10.000USD. Điều này buộc DN phải thực sự có lực và có khả năng tồn tại trong thời gian dài mới có cơ may được các DN TQ chú ý và tiến đến tiến hành giao dịch”, ông Sắc chia sẻ.